Lịch sử Mascara

Chải chuốt mắt bằng mascara.

Trang điểm thẩm mỹ là một dạng văn hóa phổ quát và mascara có thể được ghi chép thành tài liệu vào thời Ai Cập cổ đại. Ghi chép từ khoảng 4000 trước Công nguyên nhắc đến loại phấn kohl được dùng để tô sẫm lông mi, mắt và lông mày.[7] Phấn côn được dùng để che đôi mắt, cả đàn ông lẫn phụ nữ đều tin rằng chúng sẽ xua đuổi ma quỷ và bảo vệ linh hồn. Thành phần thường gồm galena; malachit; than gỗ hoặc bồ hóng, phân cá sấu; mật ong; nước được thêm vào để giữ phấn côn trơn chảy.[8] Thông qua ảnh hưởng từ Ai Cập, tục sử dụng phấn côn tồn tại ở Babylon, Hy Lạp và đế quốc La Mã về sau. Khoảng 100 năm trước Công nguyên, người La Mã cổ đại đã sử dụng một hỗn hợp gồm tro cánh hoa hồng, hạt chà là, bồ hóng để đánh lên hàng mi.[9] Sau khi đế chế La Mã sụp đỗ, phấn côn đã bị loại bỏ trên lục địa châu Âu, nơi mà chúng được xem là mỹ phẩm độc tôn; ngược lại, chúng vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi ở Trung Đông cho mục đích tôn giáo.[7] Năm 900 sau Công nguyên, một nhà văn Ba Tư tên là Ziryab đã thành lập một trường đào tạo nhan sắc chuyên về sử dụng mascara. Ở đây, người học sẽ được đào tạo kiến thức về mascara, như cách đánh mascara như thế nào cho đúng, hay cách tạo ra mascara làm sao.[9]

Trang điểm bị xem là khó coi và thô kệch trong văn hóa phương Tây mãi cho đến thời kỳ Victoria. Vào thời kỳ Victoria, quan điểm xã hội chuyển giao triệt để cho việc quảng bá mỹ phẩm và được biết rằng phụ nữ dành phần lớn thời gian trong ngày bận rộn với chế độ làm đẹp. Những nỗ lực to lớn được thực hiện để tạo ra ảo giác về hàng lông mi dài, đậm.[10] Cố gắng này, phụ nữ thời Victoria đã tạo ra một loại mascara trong nhà riêng của họ.[8] Họ sẽ làm nóng hỗn hợp tro hoặc muội đèn và nước ép quả cơm cháy trên một tấm kim loại và chuốt hỗn hợp nóng lên lông mi.[11]

Sản phẩm mà mọi người sẽ nhận ra như mascara ngày nay đã không phát triển cho đến thế kỷ thứ 19. Một nhà hóa học tên là Eugene Rimmel đã phát triển sản phẩm mascara hoàn chỉnh đầu tiên trên thế giới bằng cách sử dụng mỡ bôi trơn sáng chế mới. Hỗn hợp không độc hại này được chứa trong một chiếc hộp nhỏ kèm theo một bàn chải nhỏ giúp cho việc chải mi được thuận tiện và dễ dàng hơn. Đây là sản phẩm làm đẹp lông mi mang tính cách mạng cả về cách thức sử dụng lẫn công thức ít độc hại nhất và đã gây sốt trong thời gian đó.[9] Tên gọi Rimmel đã trở thành từ đồng nghĩa với chất dịch và vẫn còn được dịch là "mascara" trong tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Romania và tiếng Ba Tư ngày nay.[12]

Trên khắp Đại Tây Dương và vào khoảng thời gian tương tự, năm 1913, một người đàn ông tên là T. L. Williams tạo ra một chất rất giống dành cho em gái ông, cô Maybel.[12] Một ngày, Mabel phát hiện ra người yêu của cô đang ngoại tình với một người phụ nữ khác, cô vô cùng đau khổ vì ghen tuông. Mabel khóc rất nhiều, nước mắt khiến hai hàng mi ướt đẫm. Nhìn cảnh tượng đó, T.L Williams nảy ra ý tưởng trộn tro than vào vaseline cho cô em Mabel bôi lên mi. Sau đó, đôi mắt Mabel trở nên long lanh với hai hàng mi dày, đen bóng quyến rũ đã giúp cô giành lại người yêu và đám cưới của cô được tổ chức sau đó không lâu.[9] Câu chuyện này cũng chính là khởi đầu cho sự ra đời của thương hiệu sản xuất mascara nổi tiếng sau này. Sau đó vào năm 1917, T.L. Williams bắt đầu một doanh nghiệp đặt hàng qua thư, phát triển sản phẩm để trở thành công ty Maybelline, bằng cách kết hợp tên em gái ông Mabel và Vaseline.[8]

Mascara phát triển nhờ hai người đàn ông này bao gồm mỡ bôi trơn và than đá ở một tỷ lệ quy định.[12] Không thể phủ nhận sự hỗn độn và một loại thay thế tốt hơn đã nhanh chóng phát triển. Một bàn chải ướt được cọ xát vào một bánh chứa xà phòng và thuốc nhuộm đen tỷ lệ ngang nhau và chải chuốt lên hàng mi.[7] Tuy nhiên nó vô cùng hỗn độn. Không cải thiện nào đáng kể diễn ra cho đến năm 1957 với sự đổi mới của Helena Rubinstein.

Sự kiện hàng đầu để cải thiện của Rubinstein bắt đầu ở Paris vào những năm đầu thế kỷ 20. Ở đó, tại kinh đô thời trang thế giới, mascara đã nhanh chóng được phổ biến và sử dụng rộng rãi.[13] Elizabeth Arden và Helena Rubinstein, hai nhân vật khổng lồ trong ngành thẩm mỹ Hoa Kỳ, theo dõi và giữ sát nhau sự phát triển của mascara. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, người tiêu dùng Mỹ trở nên háo hức với những sản phẩm mới.[14] Ý thức cơ hội, cả Rubinstein và Arden ra mắt thương hiệu riêng của họ về mỹ phẩm bao gồm mascara. Thông qua nỗ lực của hai đối thủ này và tính công chúng, mascara cuối cùng đã giành được sự tôn trọng và ủng hộ trong xã hội Mỹ.[15]

Phát minh chụp ảnh và hình ảnh chuyển động khởi xướng phổ biến mascara và sử dụng tiến xa hơn ở Mỹ. Hình ảnh chuyển động đặc biệt là quảng cáo một tiêu chuẩn mới của vẻ đẹp và sự hấp dẫn giới tính.[16] Nữ diễn viên nổi tiếng của thời đại điện ảnh cổ điển, chẳng hạn như Theda Bara, Pola Negri, Clara Bow, Greta Garbo, Marlene Dietrich, Bette DavisJean Harlow, phụ thuộc rất nhiều vào mascara cho diện mạo được tán dương của họ, mà người phụ nữ trung lưu tìm cách bắt chước.[17]:8–9,11–12

Năm 1933, một phụ nữ được biết đến trên hồ sơ tòa án là bà Brown đồng ý để lông mi của bà được nhuộm lâu dài.[17]:20 Thật không may, sản phẩm, Lash Lure, sử dụng para-phenylenediamine, một loại hóa chất cực kỳ độc hại đối với cơ thể, như tác nhân nhuộm.[17]:23 Tại thời điểm đó, mỹ phẩm đã không được Cục Quản lý dược phẩm liên bang kiểm soát và sự nguy hiểm của paraphenylenediamine chưa được biết đến.[18] Trong vòng vài giờ điều trị, bà Brown đã bắt đầu có triệu chứng nghiêm trọng khi đôi mắt đau nhức và bỏng rát. Đến sáng hôm sau, mắt bà Brown đã tiến triển thành viêm loét rỉ ra và phồng rộp.[17]:22 Sử dụng Lash Lure dẫn đến mù lòa ở bà Brown cùng 15 phụ nữ khác và cũng gây ra tử vong thêm nữa. Chỉ sau khi sự cố Lash Lure và vài sự cố khác giống như vậy, được ghi chép vào cuốn sách mang tên American Chamber of Horrors của Ruth deForest Lamb, Quốc hội đã cấp cho FDA quyền kiểm soát mỹ phẩm năm 1938.[17]:24

Nhiều năm sau đó vào năm 1957, Rubinstein đã tạo ra một công thức mà tiến hóa mascara từ một chiếc bánh cứng thành một loại kem dạng thuốc xoa. Bà đóng gói mascara mới trong cái ống bán với một bàn chải. Để sử dụng, kem đã được vắt lên bàn chải và chải chuốt lên hàng mi.[14] Mặc dù vẫn còn hỗn độn, đó là một bước tiến cho sản phẩm mascara hiện đại.

Ngay sau đó, một que xoi rãnh đã được cấp bằng sáng chế. Thiết bị này đính giữ một lượng mascara cho mỗi lần sử dụng. Sau đó, que xoi rãnh được biến đổi thành bàn chải tương tự như những mascara sử dụng ngày hôm nay. Sự thay đổi khi chải chuốt khiến việc sử dụng mascara dễ dàng hơn và tính phổ biến tăng lên.[7]